Các lực lượng chức năng Botswana bắt đầu tiến hành việc cưa sừng đàn tê giác khiến chúng không còn giá trị đối với những toán đi săn trộm tê giác với mục đích lấy sừng, trong bối cảnh hơn 50 cá thể của loại động vật mang tính biểu tượng châu Phi đã bị triệt hạ trong 2 năm qua tại quốc gia này.

sừng tê giác
Cưa bỏ sừng để… cứu tê giác
Theo phóng viên TTXVN tại châu Phi, trong một thông báo ngày 23/6, Giám đốc Bộ Bảo vệ động vật hoang dã Botswana Cyril Taolo cho biết bắt đầu từ tháng 4 vừa rồi, các lực lượng chức năng cũng đã di chuyển phần lớn đàn tê giác hiện đang sinh sống rải rác trong các khu rừng đến một khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt tại khu vực châu thổ sông Okavango nằm ở phía Bắc nước này. Ông Taolo nêu rõ việc cưa sừng được thực hiện dựa trên các phương pháp khoa học, do đó sẽ không ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như tính mạng của đàn tê giác. Toàn bộ số sừng sau khi cưa sẽ được tiêu hủy theo quy định của pháp luật cùng sự chứng kiến của các cơ quan chức năng liên quan.
Trong khi đó, nhà hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ thiên nhiên hoang dã nổi tiếng thế giới Neil Fitt cho rằng việc di chuyển đàn tê giác ra khỏi môi trường sống quen thuộc sẽ gây ảnh hưởng tới tập tính cũng như khả năng sinh sản của chúng, tuy nhiên, đây là việc làm cần thiết trong bối cánh các toán săn trộm tê giác ngày càng trở nên manh động hơn.
Hồi tháng 4 vừa rồi, các lực lượng chức năng Botswana đã tiêu diệt 5 đối tượng săn trộm tê giác lấy sừng sau khi vấp phải sự chống trả quyết liệt. Theo tính toán, nếu không có những biện pháp ngăn chặn kịp thời, đàn tê giác khoảng hơn 500 con tại quốc gia nằm ở phía Nam châu Phi này sẽ biến mất vào cuối năm 2021.
Trước đó, năm 2019, các nhà bảo vệ thiên thiên Nam Phi cũng đã thành công trong việc bảo tồn gần 700 cá thể tê giác sau khi tiêm một hỗn hợp thuốc độc chuyên dụng vào sừng khiến các cá thể này không còn giá trị đối với những toán đi săn trộm tê giác với mục đích lấy sừng.
Ngoài ra, nhằm làm mất giá trị thương mại của sừng tê giác, các nhà bảo vệ thiên nhiên còn dùng phương pháp bắn thuốc gây mê khiến tê giác tạm thời bất tỉnh, sau đó tiêm một hỗn hợp bao gồm thuốc độc và dung dịch nhuộm màu trực tiếp vào sừng.Trong khi thuốc độc sẽ khiến sừng không thể sử dụng với mục đích chữa bệnh, dung dịch nhuộm màu có khả năng thẩm thấu sâu sẽ khiến sừng không còn giá trị trưng bày.
Theo Save the Rhino – tổ chức phi lợi nhuận quốc tế chuyên về bảo vệ loài tê giác, hiện chỉ còn khoảng 5.500 cá thể tê giác đen đang sinh sống tại châu Phi và phân bố chủ yếu tại khu vực miền Nam lục địa này, giảm đáng kể so với 65.000 cá thể trong năm 1970.
Ly kỳ chuyện mua bán sừng tê
Cách đây mấy năm, khi phóng sự Bí mật sừng tê giác đăng trên Thanh Niên, tôi nhận rất nhiều cuộc điện thoại xin gặp. Có cô gái nhờ tôi xem giùm mẩu sừng tê nặng chừng một lạng mà cô coi như “bảo bối” có thể giúp cho người anh ruột qua khỏi căn bệnh ung thư hiểm nghèo. Một người đàn ông trung niên từ Đồng Nai mang theo khúc sừng mà ông ta cho rằng của gia truyền để lại từ mấy đời. Đặc biệt, có cơ quan chức năng ở tận miền Tây nhờ “giám định” giùm một lúc mấy chiếc sừng họ thu được trong một vụ án chống buôn lậu… Không cần quan sát gì nhiều, chỉ cầm trên tay và nhìn thoáng qua tôi có thể trả lời dứt khoát đó là hàng giả.
Từ đấy đến nay có biết bao vụ mang lậu sừng tê giác châu Phi vào VN bị hải quan bắt giữ tại các cửa khẩu sân bay. Gần đây nhất một trong vài cá thể tê giác một sừng cuối cùng ở rừng quốc gia Cát Tiên bị bọn săn trộm bắn hạ. Xác con tê giác xấu số được tổ công tác Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên hoang dã (WWF) khẳng định: Có dấu vết đạn súng săn và chiếc sừng đã bị cắt mất. Khi tin này được công bố trên báo, một tay chuyên buôn hàng cấm tỏ ý tiếc rẻ. Theo anh ta sừng tê giác Java luôn được coi là hiếm và đắt nhất, không nặng quá 1,5 kg, giá được hét lên 4.000 USD/lạng. Thế nhưng, muốn tìm ra một chiếc sừng tê giác loại này là chuyện “mò kim đáy biển”. Trong khi đó sừng tê giác đen châu Phi thường nặng từ 3-5 kg, hiện nay dao động quanh mức 2.500-3.000 USD/ lạng, sừng tê giác trắng từ 2.000-2.500 USD/lạng. Trên thị trường loại một sừng bao giờ cũng có giá hơn loại 2 sừng, và chỉ cần có người tin cậy giới thiệu là có thể tìm mua bao nhiêu cũng có (!?).
Với mặt hàng giả, cách chế tác hết sức tinh xảo, cộng thêm thủ đoạn tung tin, thổi phồng, đưa người mua vào mê hồn trận. Thông thường nhất dùng sừng trâu nước hong trên gác bếp củi chừng 3 năm, biến màu xám ngà thành màu đen mun, cắt lấy chót đầu và tạo hình. Đầu tiên là tạo thớ dọc mặt ngoài, tiếp theo tạo các “vòng tuổi” ở chân sừng, tạo nút nhú để phân biệt sừng con đực (7 nhú) hay con cái (9 nhú). Bịa đặt hoang đường như vậy, nhưng không hiểu sao không ít nạn nhân trúng phải bẫy lừa. Chỉ mới đây thôi, một đại gia ở Lâm Đồng mua cặp sừng có “nguồn gốc” châu Á trị giá 1 tỉ đồng. Đến khi biết mình mua phải hàng giả quay lại nơi bán tìm, thì hỡi ôi từ chiếc xe hơi chúng sử dụng đi lại và cả ngôi nhà lầu mấy tầng đều là của thuê mướn, chúng đã trả lại cho chủ và biến đi không để lại chút dấu vết.Nghe qua như thế, nhưng một chuyên gia giám định ADN (yêu cầu giấu tên) cho biết trong năm qua có tới 50 trường hợp nhờ anh giám định hộ nhưng hầu hết là giả, chỉ có 2-3 cái thật (những hình ảnh sử dụng trong bài này là do anh cung cấp). Đối với sừng thật tùy theo cách khai thác và phương thức bảo quản, chất lượng của sừng sẽ quyết định giá cả. Sừng non thường được định giá rẻ, kể cả sừng được cất giữ lâu năm cũng sẽ giảm sút chất lượng do mất đi nhiều hoạt chất. “Tốt nhất là sừng rớt đầu tê giác khoảng chừng 2 tháng, vừa đủ khô. Cách bảo quản độc đáo theo dân gian là bỏ trong lọ hũ nếp rang, định kỳ thay gạo mới, giữ cho phẩm chất không thay đổi”, vị chuyên gia nọ kết luận.
Chúa sơn lâm đã mất “ngôi”
Dân trong nghề còn nói đến một loại sừng giả siêu hạng gọi là sừng “công nghệ”, có xuất xứ từ Thái Lan. Cách chế tác là sử dụng sợi polyme ép tạo hình sừng tê giác giống y như thật, trong quá trình làm giả pha trộn một ít bột sừng tê giác tỉ lệ chừng 5%. Khi soi đèn thấy có tia, lỗ và mắt lưới, đúng tiêu chuẩn hàng thật. Nếu khách hàng còn nghi ngờ mài lấy bột đưa đi phân tích, kết luận có ADN sừng tê hiện lên, đến mức này ngay cả những bậc thầy cũng phải chào thua!
Những số liệu không chính thức ước tính loài hổ còn không quá 100 cá thể ở VN. Loài vật mệnh danh là chúa sơn lâm này đang đứng trên bờ vực tuyệt chủng. Buôn bán hổ lấy xương dùng nấu cao hổ cốt trở thành nghề hái ra tiền và mặt hàng này ngày càng hiếm. Để đáp ứng nhu cầu có thật, các đường dây buôn hàng cấm vươn dài qua tận Lào, Campuchia, tới tận Myanmar để nhập hổ lậu vào VN. Đây là lý do lâu lâu mọi người lại nghe tin nơi này nơi nọ bắt được hổ vận chuyển bằng xe đông lạnh.
Những kẻ rao bán cao hổ với giá 5-7 triệu đồng/lạng dứt khoát là cao hổ dởm. Mánh lừa phổ biến nhất vẫn là dùng xương trâu, bò nấu cao, sau đó cho một ít thuốc phiện vào. Khi trong người đang mệt mỏi, chỉ cần uống chừng một muỗng nhỏ thì lập tức cảm thấy sảng khoái, hưng phấn, đến độ có người gọi là “thần dược”. Uống phải loại cao hổ cốt này là tác hại khôn lường. Thầy thuốc đông y Bảo Sanh từng sử dụng cao hổ trị một số bệnh khẳng định: “Cao hổ thật khi uống luôn có cảm giác nóng trong người, vì vậy những người âm hư không được dùng. Vị thuốc này phải thấm lâu và từ từ phát huy tác dụng”.Một ông trùm chuyên cung cấp cao hổ và luôn đảm bảo là thật nói: “Hổ sau khi bị giết liền móc bỏ nội tạng, cân móc hàm và qui ra cân hơi. Giá mỗi cân hơi hiện nay ở mức 4 triệu đồng”. Con hổ nặng chừng 150 kg đem róc lấy khoảng 10-12 kg xương, trộn một phần xương sơn dương (phi sơn dương bất thành hổ cốt) khi nấu cho ra chừng 4 kg cao thành phẩm. Cộng thêm các khoản chi phí, giá thành một lạng cao hổ cốt không bao giờ nằm dưới mức 18 triệu đồng, giá bán buôn phải từ 20 triệu đồng trở lên.
Móng và nanh hổ được coi là vật trừ tà theo tín ngưỡng dân gian, một cái nanh đẹp giá từ 10-40 triệu đồng, và một cái móng phải từ 3-10 triệu đồng. Vậy là những móng và nanh của hổ đông lạnh cũng bị vặt sạch, thay vào đó là móng giả, nanh giả. Kỹ thuật chế tác các “phụ tùng” giả này cũng khá dễ dàng. Đến như pín hổ (dương vật) bán ra ngoài thị trường cũng không bao giờ có hàng thật. Pín hổ thật kích cỡ không lớn lắm, khi phơi khô độ to chỉ bằng ngón tay cái, dài khoảng 8-12 cm. Trong khi đó hiện đang lưu hành nhiều loại pín hổ dài 30-40 cm, đầu có gai tua tủa với bao lời thêu dệt về công năng phi thường dành cho quý ông! Đã có biết bao người là nạn nhân của những trò lừa đảo ngày càng tinh vi, và các quý ông xin chớ tin vào những lời đồn thổi mà tiếp tục dấn thân vào cảnh “tiền mất tật mang”.Trở lại chuyện hổ đông lạnh, đừng tưởng cứ nhìn thấy hổ ướp đông “nguyên đai, nguyên kiện” là hoàn toàn thật. Bọn buôn lậu xảo quyệt luôn có trong tay những thợ tay nghề cao, dễ dàng “phẫu thuật” lấy đi xương chân trước (thường có lỗ nhỏ cong cong gọi là mắt phượng) và xương bả. Chúng thay vào bằng xương báo do báo vẫn còn nhiều và xương cũng có mắt phượng (không giá trị dược liệu). Người mua gặp phải chiêu này thì không còn cách chi phân biệt được. Có trường hợp làm ra 12 kg xương nhưng chỉ có 4 kg xương hổ thật, 8 kg còn lại là xương báo hoặc xương gấu.
Sừng tê giác chứa chất bảo quản gây hại
15 loài nguy cấp nhất hành tinh
Nhân dịp kỷ niệm Ngày loài có nguy cơ tuyệt chủng 15-5, hãy nhìn lại 15 loài động vật nguy cấp nhất hành tinh.
Ngày loài có nguy cơ tuyệt chủng là ngày để mọi người dân ở mọi lứa tuổi trên thế giới công nhận những nỗ lực bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng và môi trường sống của chúng trên toàn thế giới. Đây cũng là cơ hội để mọi người tìm hiểu, thực hiện những hành động hàng ngày để bảo vệ các loài không may mắn có nguy cơ tuyệt chủng này.
Hành tinh của chúng ta đang có hơn 16.000 loài động vật, thực vật, côn trùng và sinh vật có nguy cơ bị tuyệt chủng, do các mối đe dọa bao gồm ô nhiễm, nóng lên toàn cầu, phát triển quá mức, môi trường sống bị phân mảnh và đánh bắt quá mức. Sự phục hồi và bảo tồn của các loài này phụ thuộc vào con người.
Chúng ta vẫn còn cơ hội để cứu những loài vật này; và các tổ chức như Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF) luôn đi đầu trong phong trào đó. WWF được thành lập năm 1961 và hoạt động trên khắp thế giới để bảo vệ hành tinh, môi trường sống và loài của chúng ta.
Để đánh dấu Ngày loài có nguy cơ tuyệt chủng, hãy nhìn lại 15 loài có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất trên hành tinh. Chúng đều đang ở trong tình trạng Nguy cấp nghiêm trọng.
Báo đốm
Tên khoa học: Panthera pardus directionalis
Trong khi hầu hết báo hoa mai sống ở châu Phi, thì phân loài quý hiếm này đã tìm cách sống sót ở vùng Viễn Đông Nga. Chúng đang bị đe dọa do săn trộm bất hợp pháp, chỉ còn 84 cá thể được cho là sống trong tự nhiên ngày nay.
WWF làm việc với các cộng đồng địa phương và chính phủ để bảo đảm sự sống còn của báo đốm. Vào năm 2012, chính phủ Nga đã tạo ra một khu vực được bảo vệ, được gọi là Công viên quốc gia Land of the Leopard rộng 650.000 mẫu Anh, trong đó có các khu vực sinh sản dành cho báo đốm Amur.
Tiến sĩ Sybille Klenzendorf, Giám đốc quản lý bảo tồn loài của WWF cho biết: “Những con báo Amur đang sắp hồi sinh trên bờ vực tuyệt chủng”.
Tê giác đen
Tên khoa học: Diceros bicornis
Tê giác đen có thể được tìm thấy ở Namibia và ven biển Đông Phi.
Trong thế kỷ 20, chúng bị săn trộm để cưa lấy sừng khiến số lượng tê giác đen giảm đáng kể, từ năm 1960 đến 1995, số tê giác đã giảm đi 98%.
Hiện còn 5.000 cá thể tê giác đen đang tồn tại, nhưng nạn săn trộm vẫn là mối đe dọa lớn đối với sự sống còn của chúng.
Ông Bas Huijbregts, Giám đốc Loài châu Phi của WWF cho biết, họ đang làm việc với các cơ quan chính phủ để ngăn chặn những kẻ săn trộm.
“WWF đang hợp tác với các cơ quan chính phủ và đối tác ở Nam Phi, Namibia và Kenya, để hỗ trợ các cơ quan thực thi pháp luật, xây dựng các cộng đồng hỗ trợ xung quanh, phát triển và xây dựng các giải pháp công nghệ tiên tiến, đồng thời trang bị và huấn luyện các kiểm lâm viên để ngăn chặn những kẻ săn trộm”, ông nói.
Ngoài ra, để bảo đảm quần thể tê giác đen khỏe mạnh và phát triển, WWF hỗ trợ các nỗ lực thiết lập quần thể tê giác đen mới thông qua việc chuyển tê giác từ các khu vực mật độ cao sang khu vực mật độ thấp có môi trường sống phù hợp.
Đười ươi
Tên khoa học: Pongo pygmaeus
Trong 60 năm qua, dân số đười ươi đã giảm 50%. Loài này được chia thành ba phân loài dựa trên nơi chúng sống trên đảo Borneo: phía Tây Bắc, Đông Bắc và ở trung tâm.
Đười ươi Tây Bắc Borneo bị đe dọa nhiều nhất do nạn phá rừng và săn bắn. Hiện tại chỉ còn 1.500 cá thể. WWF đã hợp tác chặt chẽ với các mạng lưới giám sát thương mại động vật hoang dã để bảo đảm an toàn cho đười ươi.
Tiến sĩ Barney Long, Giám đốc cấp cao của Tổ chức bảo tồn động vật hoang dã toàn cầu (Global Wildlife) cho biết: “Đười ươi bị săn đuổi, bán, đẩy ra khỏi nhà của chúng là những cánh rừng. Hoàn cảnh của một trong những loài động vật có họ hàng gần nhất của con người là do chính chúng ta tạo ra và chúng ta cần giúp chúng phục hồi”.
Khỉ đột sông Cross
Tên khoa học: Gorilla gorilla diehli
Đây là loài khỉ đột sống giới hạn ở những ngọn đồi và núi rừng của khu vực biên giới Cameroon-Nigeria tại đầu nguồn của sông Cross (Nigeria).
Do phá rừng, khỉ đột sông Cross hiện đang sống gần gũi với con người và vì thế có nguy cơ bị săn trộm bất hợp pháp.
Ông Tom Dillon, Phó chủ tịch cấp cao của WWF về các chương trình thực địa cho biết, vì số lượng loài này quá ít nên bất kỳ cá thể khỉ đột nào bị giết sẽ có tác động rất lớn.
“Nếu chúng ta không nghiêm túc trong việc cứu những loài này, nhiều khả năng nhiều cá thể sẽ không xuất hiện trong những năm tới”, ông nói.
Khỉ đột miền Đông
Tên khoa học: Gorilla beringei graueri
Đây là loài lớn nhất trong bốn phân loài khỉ đột, sống ở vùng đất thấp phía đông Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC), chủ yếu ăn hoa quả.
Tình trạng bất ổn dân sự ở Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC), nơi loài này sinh sống, đã dẫn đến sự thu hẹp môi trường sống của chúng.
Các nhà khoa học đã không thể đếm chính xác về số lượng khỉ đột do bạo lực xảy ra trong khu vực.
Việc săn trộm cũng là một vấn đề, với những kẻ săn trộm xâm chiếm Vườn quốc gia Kahuzi-Biega, nằm trong DRC. WWF đã làm việc với nhân viên công viên và các tổ chức khác để kiểm soát nhằm bảo vệ loài này.
Rùa biển Hawksbill
Tên khoa học: Eretmochelys imbricata
Chủ yếu được tìm thấy ở vùng biển nhiệt đới và gần các rạn san hô, rùa biển đã sống ở vùng biển của chúng ta trong 100 triệu năm qua và chúng là một phần quan trọng của hệ sinh thái biển. Chúng giúp duy trì sự sống của các rạn san hô bằng cách loại bỏ bọt biển.
Mặc dù được bảo vệ theo Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật và thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng, rùa Hawksbill bị đe dọa nhiều nhất bởi buôn bán động vật hoang dã. Ô nhiễm, thu thập trứng quá mức và phát triển kinh tế ven biển cũng góp phần vào sự suy giảm của chúng.
WWF đã làm việc với các ngư dân để tạo ra những chiếc móc thân thiện với rùa và làm việc với các cộng đồng địa phương để cố gắng ngăn chặn tình trạng thu gom trứng rùa.
Tê giác Java
Tên khoa học: Rhinoceros sondaicus
Với số lượng còn khoảng 68, tê giác Java là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất trong số năm loài tê giác.
Chúng từng sống ở khắp vùng đông bắc Ấn Độ và Đông Nam Á, nhưng giờ chỉ có thể được tìm thấy ở Công viên quốc gia Ujung Kulon, ở Indonesia.
Hiện tại, nơi đây là cơ hội sống sót duy nhất của tê giác Java, vì vậy điều quan trọng là chúng phải được bảo vệ khỏi mọi mối đe dọa.
Để giảm khả năng tuyệt chủng, WWF đang tìm cách thiết lập một quần thể tê giác Java thứ hai.
Đười ươi
Tên khoa học: Pongo tapanuliensis
Là sinh vật có trí thông minh cao, đười ươi chia sẻ 96,4% gen của loài người. Chúng được biết đến với bộ lông màu đỏ đặc biệt và được coi là động vật sống trên cây lớn nhất.
Đười ươi có ba loài: Bornean, Sumatra và Tapanuli và chúng sống đơn độc trong các khu rừng đất thấp.
Chúng được biết đến như là “người làm vườn” của rừng, giúp phân tán hạt giống và vì vậy chúng rất quan trọng đối với môi trường sống.
Phá rừng, săn bắn trái phép và mất môi trường sống đã dẫn đến sự đe dọa tuyệt chủng của đười ươi, trong đó loài đười ươi Tapanuli có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất khi chỉ có 800 cá thể còn sống.
Vào năm 1970, WWF bắt đầu làm việc về bảo vệ đười ươi, bao gồm các sáng kiến để ngăn chặn nạn săn trộm, bảo tồn môi trường sống và chấm dứt buôn bán thú cưng.
Voi Sumatra
Tên khoa học: Elephas maximus sumatranus
Được tìm thấy ở Borneo và Sumatra, voi Sumatra có chung môi trường sống với tê giác, hổ và đười ươi Sumatra.
Tuy nhiên, nạn phá rừng là một vấn đề lớn ở Sumatra, hơn hai phần ba diện tích rừng thấp ở đây bị chặt phá trong 25 năm qua.
Săn trộm ngà voi cũng là một vấn đề, mặc dù loài voi ở đây có ngà nhỏ hơn các loài khác. Năm 2017 Trung Quốc đã cấm buôn bán ngà voi, vì thế nhu cầu ngà voi đã giảm.
Tiến sĩ Barney Long, Giám đốc cấp cao về bảo tồn loài tại Bảo tồn động vật hoang dã toàn cầu, cho biết: “Trừ khi việc phá rừng trên đảo Sumatra dừng lại, còn không chúng ta chỉ có thể thấy voi Sumatra bị giới hạn trong một số quần thể xa xôi”.
Đười ươi Sumatra
Tên khoa học: Pongo abelii
Loài đười ươi Sumatra sống gần như độc nhất trong những cây rừng nhiệt đới ở Sumatra. Loài này hiện bị co cụm ở phía bắc của đảo do phát triển nông nghiệp, các đồn điền dầu cọ và hỏa hoạn.
Một con đường lớn được xây dựng ở phía bắc Sumatra có thể đang đe dọa một trong những khu vực sinh sống cuối cùng còn lại của loài này.
WWF đã và đang làm việc để ngăn chặn việc phá rừng tự nhiên bên ngoài Vườn quốc gia Bukit Tigapuluh.
“Số phận của đười ươi Sumatra liên kết chặt chẽ với những khu rừng biến mất nhanh chóng của hòn đảo. Nếu chúng ta muốn cứu đười ươi Sumatra, chúng ta phải cứu ngôi nhà là rừng của chúng”, Tiến sĩ Barney Long, Giám đốc bảo tồn loài động vật, Tổ chức Bảo tồn động vật hoang dã toàn cầu nói.
Tê giác Sumatra
Tên khoa học: Dicerorhinus sumatlingsis
Tê giác Sumatra là loài tê giác nhỏ nhất trong số các loài tê giác còn sống và là loài tê giác duy nhất ở châu Á có hai sừng.
Hiện tại chúng chỉ được tìm thấy ở Borneo và Sumatra, mặc dù chúng từng sống ở phía đông dãy Hy Mã Lạp Sơn, miền đông Ấn Độ và Thái Lan trước khi bị tuyệt chủng ở những khu vực đó.
Vì nạn săn trộm do nhu cầu sừng tê giác tăng lên, môi trường sống bị mất, số cá thể tê giác Sumatra đã giảm xuống chỉ còn 80 con.
Để giữ cho các phân loài này không bị tuyệt chủng, WWF đã ưu tiên nuôi nhốt loài này, cố gắng cứu môi trường sống của chúng và chống lại tội phạm động vật hoang dã.
Hổ Sunda
Tên khoa học: Panthera tigris sondaica
Những con hổ Sunda được phân biệt bởi các sọc đen dày trên bộ lông màu cam của chúng.
Hiện chỉ còn 400 cá thể, tất cả đều sống trên đảo Sumatra. Các nhà bảo tồn lo lắng rằng nạn phá rừng và săn trộm (chiếm 80% số ca tử vong của hổ) có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng, tương tự như những gì đã xảy ra với đồng nghiệp Javan và Balani của chúng.
WWF đã làm việc để giúp bảo vệ các khu vực nơi những con hổ này sống và sinh sản. Nghiên cứu sử dụng bẫy camera cũng sẽ giúp ước tính quy mô số lượng loài hổ.
Cá heo Vaquita
Tên khoa học: Phocoena sinus
Vaquita là một loài cá heo đặc hữu của Vịnh California. Với số lượng chỉ còn 10 cá thể, Vaquita là động vật có vú dưới biển hiếm nhất thế giới.
Chỉ được phát hiện vào năm 1958, chúng hiện đang trên bờ vực tuyệt chủng do đánh bắt cá bất hợp pháp – cứ năm con cá heo Vaquita thì có một con chết trong lưới đánh cá.
WWF đang làm việc để cải thiện các kỹ thuật đánh bắt cá và đã kêu gọi lệnh cấm đối với nghề đánh cá bằng lưới.
Khỉ đột miền tây
Tên khoa học: Gorilla gorilla gorilla
Số lượng chính xác của khỉ đột vùng đất thấp phía Tây chưa được biết do môi trường sống xa xôi của chúng trong rừng nhiệt đới châu Phi.
Chúng được tìm thấy ở Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Equatorial Guinea, Gabon và Cộng hòa Congo.
Theo WWF, mặc dù có số lượng đông nhất trong số các phân loài khỉ đột, quần thể khỉ đột ở vùng đất thấp phía Tây đã giảm 60% trong 25 năm qua do săn trộm, săn bắn thịt và bệnh tật như dịch Ebola.
WWF đang hỗ trợ các chương trình giúp ngăn chặn nạn săn trộm và giúp phát triển vaccine Ebola cho khỉ đột.
Cá heo không vây nước ngọt
Tên khoa học: Neophocaena asiaeorientalis ssp. Asiaeorientalis
Với số lượng ít hơn 2.000 cá thể, loài cá heo không vây sống ở nước ngọt này được biết đến với trí thông minh có thể so sánh với một con khỉ đột và “nụ cười” tinh nghịch của nó.
Chúng được tìm thấy ở sông Dương Tử, Trung Quốc, nhưng đánh bắt quá mức và ô nhiễm có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng. Loài này từng cùng sống trên một dòng sông với cá heo Baiji, trước khi cá heo Baij bị tuyệt chủng vào năm 2006.
Hợp tác với các đối tác, WWF đã giúp kết nối hơn 40 hồ nước lũ đến sông Dương Tử nhằm bảo tồn loài cá quý.
Cokovietnam.vn cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
- Cách mài và uống sừng tê giác
- Liều lượng uống sừng tê giác
- Uống sừng tê giác có tác dụng gì
- Sừng tê giác ngâm rượu
- Hình ảnh sừng tê giác thật
- Uống sừng tê giác vào lúc nào
- Sừng tê giác giá bao nhiều
- Tại sao sừng tê giác lại quý